Sơ kỳ Trung Cổ Trung_Cổ

Bài chi tiết: Sơ kỳ Trung Cổ

Các xã hội mới

Bài chi tiết: Giai đoạn Di cư

Cấu trúc chính trị của Tây Âu thay đổi với sự kết thúc đế quốc Rôma thống nhất một thời. Mặc dù sự di cư các dân tộc thường được mô tả là những cuộc "xâm lược", chúng không chỉ là những cuộc viễn chinh quân sự thuần túy mà còn là những đợt di cư toàn bộ các bộ tộc vào đế quốc. Những đợt di dân như vậy xảy ra thuận lợi nhờ giới thượng lưu Tây Rôma không chịu hỗ trợ quân đội hoặc đóng các loại thuế để quân đội có thể kìm giữ man dân di cư.[38] Những hoàng đế ở thế kỉ 5 thường chịu sự điều khiển của những vị tướng quyền lực nắm quân đội như Stilicho (mất năm 408), Aspar (chết năm 471), Ricimer (chết năm 472) hay Gundobad (chết năm 516), những người chỉ một phần hoặc hoàn toàn không có gốc gác Rôma. Khi dòng tộc hoàng đế đứt đoạn, nhiều vị vua thay thế họ cũng mang dòng dõi ngoại dân. Hôn nhân giữa những vị vua này với giới thượng lưu Rôma xảy ra phổ biến đương thời.[39] Điều này dẫn tới một sự dung hợp văn hóa Rôma với các tập quán của những bộ tộc xâm lược, bao gồm những nghị hội cho phép những đàn ông tự do của bộ tộc nhiều tiếng nói trong các vấn đề chính trị hơn trong nhà nước Rôma.[40] Những vật tạo tác còn lưu lại đến nay của người Rôma và man dân thường tương tự nhau, và thường là man dân bắt chước Rôma.[41] Phần nhiều văn hóa văn tự và học thuật của những vương quốc mới cũng dựa trên các truyền thống trí thức Rôma.[42] Một khác biệt quan trọng là sự giảm hụt trong ngân sách thuế do những chính thể mới. Nhiều thực thể chính trị mới không còn chu cấp cho quân đội thông qua thuế, mà dựa vào việc ban cho tướng lĩnh đất đai hoặc cho thuê. Điều này giảm bớt nhu cầu ngân sách thuế lớn và hệ thống đánh thuế Rôma tan rã.[43] Chiến tranh thường xuyên xảy ra giữa các vương quốc và cả trong nội bộ vương quốc. Chế độ nô lệ suy giảm khi nguồn cung suy yếu, các đô thị suy sút và nhìn chung xã hội trở nên nông thôn hóa.[44][chú thích 8]

Đồng tiền đúc hình Theodoric Đại đế

Giữa thế kỉ 5 và thế kỉ, những dân tộc mới và những cá nhân hùng mạnh lấp vào chỗ trống chính trị để lại bởi chính phủ trung ương tập quyền Rôma.[42] Người Ostrogoth định cư ở Italia vào cuối thế kỉ 5 dưới thời Theodoric Đại đế (mất năm |526) và thành lập một vương quốc đánh dấu sự hợp tác giữa người Ý và người Ostrogoth, ít nhất là cho đến những cuối triều đại của Theodoric.[46] Người Burgundy định cư tại Gallia, và sau khi một triều đại trước đó bị người Hung hủy diệt, họ thành lập một vương quốc vào những năm 440. Giữa miền GenèveLyon ngày nay, nó trở thành một triều đại hùng mạnh của Burgundy trong cuối thế kỉ 5 và đầu thế kỉ 6.[47] Ở miền bắc Gallia, người Frank và người Briton xây dựng những thể chế nhỏ. Vương quốc của người Frank có trung tâm năm ở miền đông nam Gallia, và vị vua mà ta có được nhiều thông tin là Childeric (mất năm 481).[chú thích 9] Dưới triều đại con trai của Childeric là Clovis (cai trị 509-511), vương quốc Frank mở rộng và cải sang Ki-tô giáo. Người Briton, gắn bó với dân bản địa của Britannia-tức Đại Anh (Great Britain) ngày nay-định cư ở nơi nay gọi là Bretagne.[49] Những nền quân chủ khác được thiết lập bởi người Visigoth ở Tây Ban Nha, người Suevi ở tây bắc Tây Ban Nha, và người Vandal ở Bắc Phi.[47] Trong thế kỉ 6, người Lombard định cư ở bắc Italia, thay thế vương quốc Ostrogoth bằng một nhóm những công quốc thỉnh thoảng mới bầu ra một vị vua cai quản chung. Đến cuối thế kỉ 6 sự sắp đặt này mới chuyển thành một nền quân chủ truyền ngôi.[50]

Những cuộc xâm lăng mang những nhóm sắc tộc mới tới châu Âu, mặc dù không đồng đều vì một số khu vực nhận những dòng di cư nhiều hơn vùng khác. Chẳng hạn ở Gallia, những người xâm lược định cư chủ yếu ở miền đông bắc so với tây nam. Người Slav định cư ở Trung và Đông Âu và bán đảo Balkan. Sự định cư của các dân tộc kéo theo sự thay đổi trong ngôn ngữ. Tiếng Latin của Đế quốc Tây Rôma dần dần bị thay thế bởi những ngôn ngữ dựa trên Latin, nhưng có những đặc trưng riêng, được gọi là các ngôn ngữ Roman. Những thay đổi từ Latin sang ngôn ngữ mới mất nhiều thế kỉ. Tiếng Hy Lạp vẫn duy trì là ngôn ngữ của Đế quốc Byzantine, nhưng sự di cư của người Slav dẫn đến sự lan truyền các ngôn ngữ Slav ở Đông Âu.[51]

Byzantine sống sót

Tranh khảm minh họa Justinianus Igiám mục của Ravenna, cận vệ, và quần thần[52]

Trong khi Tây Âu chứng kiến sự hình thành những vương quốc mới, Đế quốc Đông Rôma vẫn còn nguyên vẹn và trải qua một sự phục hồi kinh tế cho tới đầu thế kỉ 7. Ít có cuộc xâm lược động đến miền đông đế chế; hầu hết xảy ra ở vùng Balkan. Hòa bình với Ba Tư, kẻ thù truyền kiếp của Rôma, kèo dài trong phần lớn thế kỉ 5. Đế quốc phương đông đặc trưng bởi những mối quan hệ gần gũi hơn giữa nhà nước chính trị và Giáo hội Ki-tô, và những vấn đề giáo lý có một vai trò quan trọng hơn trong chính trị phương đông so với Tây Âu. Sự phát triển của nền pháp lý bao gồm sự hoàn chỉnh Luật Rôma; nỗ lực đầu tiên-Bộ luật Theodosianus-hoàn tất năm 438.[53] Dưới triều đại hoàng đế Justinian (cai trị 527-565), một đợt biên soạn mới diễn ra Bộ luật Justinianus hay Corpus Juris Civilis (Bộ Luật Dân sự).[54] Justinian cũng giám sát việc xây dựng Đại giáo đường Hagia Sophia ở Contantinopolis và sự tái chinh phục Bắc Phi từ tay người Vandal và Ý từ người Ostrogoth[55] của đội quân Rôma do viên tướng tài Belisarius (chết năm 565) thống lĩnh.[56] Cuộc chinh phục Ý không hoàn thành, bởi một sự bùng phát dịch hạch năm 542 đầy chết chóc, buộc Justinian dành phần cuối cuộc đời tập trung vào các biện pháp phòng thủ thay vì mở rộng tái chiếm.[55] Khi vị hoàng đế băng hà, Byzantine đã lấy lại quyền kiểm soát phần lớn Ý, Bắc Phi, và có một chỗ đứng chân ở nam Tây Ban Nha. Nhiều nhà sử học chỉ trích tham vọng khôi phục Đế quốc Rôma thống nhất của Justinianus là tốn kém, tạo ra một đế quốc quá lớn vượt tầm kiểm soát và tạo điều kiện cho người Hồi giáo xâm lược; tuy nhiên những vấn đề mà những người kế tục Justinian đối diện không chỉ bởi việc tăng thuế quá mức để bù đắp chiến phí mà còn là bản chất dân sự của đế chế, khiến cho việc tăng quân số hết sức khó khăn.[57]

Bên trong đế quốc sự xâm nhập từ từ vào vùng Balkan của người Slav tạo thêm một khó khăn nữa cho những người kế thừa Justinianus. Nó bắt đầu một cách chậm chạp, nhưng tới cuối những năm 540 các bộ lạc Slav đã tràn khắp Thrace và Illyrium, và đánh bại một đạo quân đế chế gần Hadrianopolis năm 551. Trong những năm 560 người Avar bắt đầu mở rộng căn cứ của họ ở bờ bắc sông Danube, tới cuối thế kỉ 6 họ đã trở thành thế lực thống trị ở Trung Âu và thường xuyên có thể buộc các hoàng đế phương Đông nộp cống phẩm; thế lực của họ còn tồn tại tới năm 796.[58] Một vấn đề khác nảy sinh từ can dự của Hoàng đế Mauricius (cai trị 582-602) vào chính trị Ba Tư khi ông can thiệp để đưa Khosrau II lên ngôi ở Ctesiphon. Điều này giúp tạo nên một thời kỳ hòa bình giữa hai cường quốc, nhưng khi Mauricius bị lật đổ, người Ba Tư đã lấy cớ xâm lược Byzantine, chiếm đóng phần lớn đế chế, bao gồm Ai Cập, SyriaTiểu Á, trước khi Hoàng đế Heraclius phản công thắng lợi, khôi phục toàn bộ lãnh thổ bị mất và ký hòa ước năm 628.[59]

Xã hội phương Tây

Ở Tây Âu, một số gia tộc thượng lưu Rôma diệt vong trong khi số còn lại tham gia vào Giáo hội nhiều hơn các sự vụ thế tục. Các giá trị gắn với nền học thức và giáo dục Rôma hầu như biến mất, và trong khi năng lực biết đọc biết viết vẫn là quan trọng, nó lui xuống thành một kĩ năng thực dụng hơn là một dấu hiệu về vị thế tinh hoa. Trong thế kỉ 4, Thánh Hieronymus (mất năm 420) thuật lại giấc mơ thấy Thượng đế khiển trách ông vì đã dành nhiều thời gian đọc Cicero hơn là Kinh Thánh. Đến thế kỉ 6, Thánh Gregorius của Tours (mất năm 594) cũng có một giấc mơ tương tự, nhưng ở đây là bị trừng trị vì học tốc ký.[60] Vào cuối thế kỉ 6, những phương tiện chính cho giảng truyền của Giáo hội đã chuyển sang âm nhạc và mỹ thuật thay vì sách.[61] Hầu hết các nỗ lực trí thức hướng vào việc bắt chước nền học vấn cổ điển, nhưng một vài tác phẩm độc đáo cũng được sáng tác, bên cạnh những bài hát truyền khẩu mà nay đã thất truyền. Các tác phẩm của Sidonius Apollinaris (mất. 489), Cassiodorus (mất khoảng 585), và Boethius (mất khoảng 525) là tiêu biểu cho thời kỳ này.[62]

Những thay đổi cũng diễn ra trong dân thường, khi mà văn hóa quý tộc tập trung vào những bữa yến tiệc lớn tổ chức ở các sảnh đường thay vì những mối quan tâm tới nghệ thuật. Trang phục giới thượng lưu thường đính rất nhiều trang sức vàng. Các vị vua và lãnh chúa xây dựng một giới thân cận quanh mình gồm những chiến binh tạo nên xương sống của quân đội.[63] Trong giới tinh hoa các mối ràng buộc thân tộc đóng vai trò quan trọng, bên cạnh các phẩm hạnh như trung thành, dũng cảm, và danh dự. Những mối ràng buộc này dẫn đến sự thịnh hành của các mối hận thù truyền kiếp (bởi nghĩa vụ trả thù cho người thân) trong xã hội quý tộc, chẳng hạn như ở xứ Gallia thời Merovingien theo lời thuật của Gregorius xứ Tours. Hầu hết các mối hận thù này kết thúc với những khoản bồi thường mạng người (tiếng Đức là wergeld).[64] Phụ nữ tham gia vào xã hội quý tộc chủ yếu trong vai trò là vợ và mẹ, nhất là vị trí mẹ của một nhà cầm quyền đặc biệt nổi bật ở Gallia, Trong xã hội Anglo-Saxon ít khi có những ấu vương khiến cho vai trò thái hậu yếu ớt hơn, nhưng bù lại ở đây các nữ tu viện trưởng nắm quyền rộng rãi ở các tu viện. Chỉ ở Ý dường như phụ nữ luôn được xem là ở dưới sự bảo vệ và kiểm soát của đàn ông.[65]

Tái dựng một ngôi làng Trung Cổ ở miền nông thôn Bavaria

Xã hội nông thôn ít được ghi chép lại hơn nhiều so với giới quý tộc. Hầu hết thông tin có được đến từ khảo cổ học; chỉ một vài ghi chép chi tiết về đời sống nông dân trước thế kỉ 9 còn sót lại. Hầu hết những mô tả này gián tiếp xuất hiện trong các đạo luật hoặc từ con mắt của những tác giả thuộc giới thượng lưu.[66] Những hình mẫu chiếm hữu đất ở phương Tây không đồng nhất; một vài khu vực có đất đai rất phân tán, nhưng ở những nơi khác những điền trang lớn lại phổ biến. Những sự khác biệt này cho phép một sự đa dạng những nếp sống khác nhau, một số do những quý tộc địa chủ thống trị trong khi một số cộng đồng có rất nhiều quyền tự trị.[67] Quy mô định cư cũng rất khác nhau: một số nông dân sống trong những làng lớn có tới 700 cư dân; số khác sống trong những trang trại cách biệt nhau; và cả những vùng hai hình thức trên trộn lẫn với nhau.[68] Không giống như thời Mạt kỳ Rôma, không có sự chia cách sắc nét nào giữa vị trí pháp lý của nông dân tự do và quý tộc, và một gia đình nông dân tự do có thể nâng mình lên qua vài thế hệ nhờ phục vụ trong quân đội để trở thành một lãnh chúa quyền lực.[69]

Đời sống và văn hóa thành thị thay đổi mạnh mẽ trong Sơ kỳ Trung Đại. Mặc dù các thành phố Ý vẫn có người cư trú, chúng co lại đáng kể về quy mô. Chẳng hạn Rôma, giảm từ dân số hàng trăm nghìn người xuống còn khoảng 30 nghìn vào cuối thế kỉ 6. Các đền thờ Rôma cải thành nhà thờ Công giáo và các tường thành vẫn được duy trì.[20] Ở Bắc Âu, các thành phố cũng thu hẹp, trong khi các công trình dân sự và các tòa nhà công cộng bị hủy hoại làm vật liệu xây dựng. Sự thành lập của những vương quốc mới cũng tạo ra sự phát triển ở những thị trấn được chọn làm thủ đô.[70] Mặc dù từng có những cộng đồng người Do Thái trong nhiều thành phố Rôma, họ chịu đựng những thời kì ngược đãi sau khi đế quốc cải sang đạo Ki-tô. Chính thức mà nói họ được khoan dung, nhưng luôn chịu những áp lực cải đạo và có những thời kì bị xua đuổi tới những vùng khác.[71]

Sự trỗi dậy của Hồi giáo

Đế chế Hồi giáo và sự bành trướng của nó. Màu tối nhất là cương vực mở rộng từ 622 tới 632, màu đậm vừa là vùng mở rộng từ 632 tới 661, và vùng sáng nhất là lãnh thổ chiếm được từ 661 tới 750.

Những tín ngưỡng tôn giáo trong đế quốc Byzantine và Ba Tư chuyển đổi mạnh mẽ cuối thế kỷ 6 và đầu thế kỷ 7. Đạo Do Thái là một đức tin cải đạo tích cực, và ít nhất một lãnh tụ chính trị người Ả Rập cải sang đạo này.[chú thích 10] Kitô giáo cũng cử những đoàn truyền giáo tích cực cạnh tranh với đạo Zoroastre (Hỏa giáo), đặc biệt nhắm vào người dân ở bán đảo Ả Rập. Những mối quan hệ phức tạp này hội tụ với sự trỗi dậy của đạo Islam (Hồi giáo) ở Arabia dưới thời Mohammed (mất năm 632).[73] Sau cái chết của ông, các đội quân Islam đã chinh phục phần lớn Byzantine và Ba Tư, bắt đầu với Syria năm 634-635, vươn tới Ai Cập năm 640-641, Ba Tư những năm 637-642, Bắc Phi cuối thế kỉ 7. Năm 711, người Hồi giáo vươn tới bán đảo Iberia và tới 714 chiếm phần lớn nơi này, một vùng mà họ gọi là Al-Andalus.[74]

Các cuộc chinh phục của Hồi giáo đạt đến đỉnh điểm vào giữa thế kỉ 8. Sự thất bại của quân Hồi giáo trong Trận Tours năm 732 dẫn đến sự tái chiếm miền nam Pháp bởi người Frank, nhưng thực ra lý do chính của việc Hồi giáo ngừng tấn công châu Âu là cuộc đảo chính lật đổ Khalifah Omeyyad. Triều đại kế tục là Nhà Abbas dời đô tới Bagdad và từ đó bận tâm đến Trung Đông nhiều hơn châu Âu, để mất kiểm soát nhiều vùng đất Hồi giáo. Những con cháu dòng dõi Omeyyad chiếm đóng bán đảo Iberia, Nhà Aghlab kiểm soát Bắc Phi và Nhà Tulun cai trị ở Ai Cập.[75] Đến giữa thế kỉ 8, các tuyến đường giao thương mới nổi lên ở Địa Trung Hải; thương mại giữa người Frank và người Ả Rập thay thế cho các tuyến đường hàng hải của Rôma trước kia. Người Frank cung cấp gỗ, lông thú, gươm và cả nô lệ để đổi lại lụa và các loại sợi khác, gia vị, và các kim loại quý từ Ả Rập.[76]

Thương mại và tiền tệ

Các cuộc di cư và xâm lược ở thế kỉ 4 và 5 đã làm đứt đoạn mạng lưới giao thương giữa các miền Địa Trung Hải. Các sản phẩm châu Phi ngừng xuất khẩu sang châu Âu, đầu tiên không còn thấy trong nội địa và tới thế kỉ 7 chỉ còn thấy ở vài thành phố như Rôma hay Naples và tới cuối thế kỉ 7 hoàn toàn không hiện diện dưới ảnh hưởng của cuộc chinh phục của Hồi giáo. Sự thay thế hàng hóa từ viễn dương bằng các sản phẩm địa phương là một xu hướng xảy ra ở các miền Rôma cũ trong suốt thời Sơ kỳ Trung Đại. Điều này đặc biệt rõ ràng ở những miền không nằm trên bờ Địa Trung Hải, như bắc Gallia hay đảo Anh. Các hàng hóa hiếm hoi không phải từ địa phương mà khảo cổ học ghi nhận thường là những mặt hàng xa xỉ. Ở miền bắc châu Âu, mạng lưới buôn bán không chỉ có tính địa phương, mà các hàng hóa cũng thường đơn sơ, chỉ có một rất ít đồ gốm và các sản phẩm tinh xảo khác. Xung quanh bờ Địa Trung Hải, đồ gốm vẫn còn phổ biến và được vận chuyển từ nơi tương đối xa chứ không chỉ gồm hàng địa phương.[77]

Các nhà nước German khác nhau ở phương tây đều đúc những đồng tiền bắt chước những dạng Rôma và Byzantine sẵn có. Vàng tiếp tục được khai thác để đúc tiền cho đến cuối thế kỉ 7, cho đến khi nó được thay thế bởi bạc. Đồng tiền bạc Frank nhỏ nhất là denarius hay denier, trong khi ở miền Anglo-Saxon là penny. Từ những miền này, đồng denier và penny lan ra khắp châu Âu trong thời kì 700-1000. Tiền đồng hoặc đồng thau không được đúc, vàng cũng vậy, trừ miền Nam Âu. Các đồng tiền này chỉ có đơn vị nhỏ nhất mà không có đơn vị bội.[78]

Giáo hội và đời sống tu viện

Một bức tranh thế kỉ 11 minh họa thánh Gregorius Cả đang đọc cho một thư ký viết.

Ki-tô giáo từng là một nhân tố thống nhất chính yếu giữa miền Đông và Tây châu Âu, nhưng cuộc chinh phục Bắc Phi của người Ả Rập đã cắt lìa mối liên lạc đường biển giữa hai khu vực này. Giáo hội Byzantine ngày càng khác biệt trong ngôn ngữ, nghi lễ, luật lệ với Giáo hội phương Tây. Giáo hội phương Đông dùng tiếng Hy Lạp thay vì tiếng Latin ở phương Tây. Sự khác biệt về thần học và chính trị xuất hiện, và tới đầu và giữa thế kỉ 8 những vấn đề như sự bài trừ thánh tượng, hôn nhân tăng lữ, và chế độ nhà nước kiểm soát nhà thờ đã tới mức độ mà sự khác biệt về văn hóa và tôn giáo giữa hai miền lớn hơn là những tương đồng.[79] Sự đổ vỡ chính thức xảy ra vào năm 1054, khi Giáo hoàng ở Rôma và Thượng phụ Đại kết ở Constantinopolis xung đột với nhau về quyền tối cao trong giáo hội và rút phép thông công lẫn nhau, dẫn tới sự phân chia Ki-tô giáo thành hai Giáo hội-nhánh phương Tây trở thành Công giáo Rôma và nhánh phương Đông thành Chính thống giáo Hy Lạp.[80]

Cấu trúc giáo hội thời Đế quốc Rôma tồn tại qua những đợt di dân và xâm lược hầu như nguyên vẹn ở phương Tây, nhưng ngôi vị giáo hoàng ít được coi trọng, và chỉ một vài giám mục ở phương Tây xem giám mục của Rôma (tức Giáo hoàng) như là lãnh tụ về tôn giáo hay chính trị. Với việc Byzantine tái chinh phục Italia từ người Goth, trước năm 750 các Giáo hoàng muốn đăng quang cần sự chuẩn thuận từ Hoàng đế Đông Rôma và do đó nhiều Giáo hoàng quan tâm nhiều hơn tới các sự vụ ở Byzantine và các tranh cãi thần học ở phương Đông. Các bản lưu trữ thư từ của Gregorius Cả (Giáo hoàng những năm 590-604) cho thấy trong số hơn 850 bức thư, hầu hết là liên quan tới sự vụ ở Ý hay ở Constantinopolis. Phần duy nhất ở Tây Âu mà Giáo hoàng có ảnh hưởng là đảo Anh, nơi Gregorius gửi đoàn truyền giáo năm 597 để cải người Anglo-Saxon sang Ki-tô gáo.[81] Những linh mục Ireland là những nhà truyền giáo tích cực nhất ở Tây Âu giữa thế kỉ 5 và 7, đầu tiên tới xứ Anh và Scotland sau đó tiến vào lục địa. Dẫn dắt bởi những tu sĩ như Columba (mất năm 597) và Columbanus (mất năm 615), họ đã lập nên những tu viện, dạy tiếng Latin và Hy Lạp, và soạn nhiều công trình tôn giáo lẫn thế tục.[82]

Sơ kỳ Trung Đại cũng chứng kiến sự thịnh hành chế độ tu viện ở phương Tây. Hình hài đời sống tu viện được xác định bởi những truyền thống và tư tưởng vốn bắt nguồn từ những Giáo phụ sa mạc ở Ai Cập và Syria. Hầu hết các tu viện châu Âu thuộc vào loại tập trung vào trải nghiệm cộng đồng về đời sống tinh thần, khởi đầu vào thế kỉ 4 bởi thánh Pachomius (mất năm 348). Những lý tưởng về đời sống tu viện lan truyền từ Ai Cập tới Tây Âu trong các thế kỉ 5 và 6 thông qua các sách kể truyện thánh như "Cuộc đời thánh Antôn Cả".[83] Thánh Benedictus của Nurcia (mất năm 547) viết Luật Benedict cho tu viện vào thế kỉ 6, mô tả chi tiết những trách nhiệm điều hành và tôn giáo của một cộng đồng các tu sĩ lãnh đạo bởi một tu viện trưởng.[84] Tu sĩ và các tu viện có một tác động sâu sắc lên đời sống tôn giáo và chính trị thời Sơ kỳ Trung Đại, trong nhiều trường hợp đã đóng vai trò như những nơi ủy thác đất đai cho những gia đình quyền quý, trung tâm tuyên truyền và ủng hộ cho hoàng gia ở những vùng mới chiếm đóng, và căn cứ cho các đoàn truyền giáo và nhập đạo.[85] Chúng là những trụ sở dạy chữ và kiến thức chính và đôi khi là duy nhất trong một vùng. Nhiều trong số những bản thảo của văn học Latin cổ điển được chép lại trong các tu viện vào thời Sơ kỳ Trung Đại.[86] Các tu sĩ cũng là tác giả của những tác phẩm mới, bao gồm lịch sử, thần học, và các đề tài khác, với những đại diện như Bede (mất năm 735) ở miền bắc xứ Anh.[87]

châu Âu thời Carolingien

Bài chi tiết: Francia
Bản đồ minh họa sự bành trướng của cường quốc Frank từ 481 tới 814

Miền đất của người Frank ở bắc Gallia chia ra thành ba vương quốc là Austrasia, Neustria, và Burgundy trong thế kỉ 6 và 7, có quan hệ lỏng lẻo với nhau vì vương vị ở ba vương quốc đều thuộc vương tộc Merovingian có tổ tiên chung là Clovis. Thế kỉ 7 chứng kiến một thời kì chiến tranh hỗn loạn giữa Austrasia và Neustria.[88] Sự hỗn loạn này bị Pépin Già, Trưởng quản hoàng gia Austrasia (mất năm 640) đứng đằng sau ngai vàng, khai thác. Con cháu Pépin thừa hưởng ngôi vị này, đóng vai trò cố vấn và nhiếp chính. Một trong những người chắt của ông, Charles Martel (mất năm 741), thắng trận Poitiers năm 732, ngăn chặn sự xâm lặng của quân đội Hồi giáo qua dãy Pyrénées.[89][chú thích 11]

Con trai của Charles Martel, Pépin Lùn (mất năm 768) tiến hành cuộc đảo chính năm 753 và thống nhất hai vương quốc Austrasia và Neustria, lập nên triều đại Carolingien. Một cuốn biên niên sử đương thời cho rằng Pépin đã được Giáo hoàng Stephanus II (giữ ngôi 752-757) ủng hộ đảo chính. Pépin sử dụng bộ máy tuyên truyền để hợp thức hóa triều đại của mình, bằng cách mô tả nhà Merovingien là bất tài hoặc tàn bạo, tán tụng công lao của Charles Martel, và lan truyền những giai thoại về lòng mộ đạo cao cả của dòng họ ông. Đến lúc sắp qua đời năm 768, theo tục lệ người Frank Pépin chia vương quốc cho hai con trai, Charles và Carloman. Khi Carloman chết bệnh, Charles không cho con nhỏ của em trai nối ngôi, và tự đưa mình nên thành nhà vua duy nhất của Austrasia và Neustria. Charles, ngày nay thường được gọi dưới tên Charles Đại Đế hay Charlemagne, tiến hành một chương trình xâm lược quy mô kể từ năm 774, dần dần thống nhất một phần lớn châu Âu, lập lên một đế chế bao phủ phần lớn nước Pháp hiện nay, bắc Ý và miền Sachsen. Trong các cuộc chiến tranh kéo dài tới khoảng năm 800, ông tặng thưởng chiến lợi phẩm và đất đai chiếm được cho các đồng minh.[91] Với việc chinh phục vương quốc Lombard (774), ông giải phóng Giáo hội Rôma khỏi nỗi sợ một cuộc xâm lược từ phía Bắc, xác lập Lãnh thổ Giáo hoàng.[92][chú thích 12] Vào ngày Giáng sinh năm 800, tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Giáo hoàng Leo III tuyên phong Charlemagne làm Hoàng đế của người Rôma.[94]

Vương cung thánh đường của Charlemagne tại Aachen, hoàn thành vào năm 805[95]

Lễ đăng quang của Charlemagne được xem như một điểm bước ngoặt trong lịch sử trung đại, đánh dấu sự trở lại Đế quốc Tây Rôma trong hình hài mới, bởi tân hoàng đế cai trị trên phần lớn lãnh thổ trước kia thuộc các hoàng đế phương Tây.[96] Nó cũng đặt Charlemagne lên tư thế ngang hàng với Đế quốc Byzantine.[97] Tuy nhiên, có những khác biệt giữa đế quốc Carolingien mới thành lập và cả đế quốc Tây Rôma trước kia và đế quốc Byzantine đương thời. Lãnh thổ Frank chủ yếu là nông thôn, chỉ có một vài thành thị nhỏ. Hầu hết dân cư là nông dân sinh sống ở những trang trại nhỏ. Thương mại rất yếu ớt và hầu hết diễn ra với người Anh và Scandinavia, tương phản với Đế quốc Rôma xưa kia với mạng lưới giao thương tập trung ở miền Địa Trung Hải.[96] Đế chế Frank được cai trị bằng một triều đình lưu động, chu du cùng nhà vua từ miền này sang miền khác mà không có kinh đô thực sự, cùng với khoảng 300 quan lại được gọi là những bá tước (tiếng Pháp cổ:comte) cai quản những quận (tiếng Pháp cổ: conté, nguồn gốc của từ 'county' trong tiếng Anh hay tương tự). Tăng lữ và giám mục giáo phận cũng đóng vai trò quan lại, cung như các sứ thần của hoàng đế (tiếng Latin: missus dominicus) đóng vai trò thanh tra biệt phái và người giảng hòa.[98]

Phục Hưng Carolingien

Triều đình Charlemagne ở Aachen từng là trung tâm của một sự nảy nở văn hóa đôi khi được gọi là "Phục hưng Carolingien". Thời kì này chứng kiến một sự gia tăng tỉ lệ biết chữ, sự phát triển của mỹ thuật, kiến trúc và luật học. Tu sĩ người Anh Alcuin (mất năm 804) được mời tới Aachen và truyền bá giáo dục tại các tu viện ở miền Northumbria. Cơ quan văn thư của Charlemagne tạo nên một kiểu chữ viết mới, ngày nay gọi là chữ Carolingien, [chú thích 13] cho phép kiểu ghi chép thông thường giúp phát triển sự liên lạc trên khắp châu Âu. Charlemagne bảo trợ những thay đổi trong nghi lễ nhà thờ, áp đặt các dạng nghi lễ Rôma lên các vùng ông cai quản, cũng như những các bình ca Gregoriano vào thánh ca nhà thờ. Một hoạt động quan trọng của các học giả thời kì này là sao chép, hiệu đính và truyền bá các tác phẩm đại cương về các chủ đề tôn giáo và thế tục, với mục đích khuyến khích việc học tập. Các công trình mới về các chủ đề tâm linh và sách giáo khoa cũng được lưu hành.[100] Các nhà ngữ pháp học của thời kì này đã chỉnh sửa ngôn ngữ Latin, biến nó từ dạng tiếng Latin Cổ điển của Đế quốc Rôma thành một dạng linh hoạt hơn để phù hợp nhu cầu của giáo hội và chính quyền. Dưới thời Charlemagne, ngôn ngữ này đã phân kỳ quá nhiều khỏi ngôn ngữ cổ điển đến mức về sau nó được gọi là tiếng Latin Trung Cổ.[101]

Đế quốc tan vỡ

Phân chia lãnh thổ Đế quốc Carolingien năm 843, 855, và 870

Charlemagne dự định tiếp tục truyền thống Frank là chia lãnh thổ đế quốc cho những người con của mình, nhưng bất thành vì đến năm 813 chỉ còn một người con của ông còn sống là Louis Mộ Đạo (cai trị 814-840). Ngay trước khi qua đời, Charlemagne đưa Louis lên làm thái tử. Triều đại của Louis đánh dầu bởi một loạt những sự chia cắt đế chế giữa các con trai của ông và từ năm 829 là các cuộc nội chiến giữa nhiều liên minh của phụ vương và các hoàng tử giành quyền kiểm soát các miền đế quốc. Cuối cùng, Louis chấp nhận cho con cả là Lothaire I (mất năm 855) là hoàng đế và thừa hưởng Italia. Phần còn lại của đế chế chủ yếu được chia giữa Lothaire và Charles Hói (mất năm 877), con út của ông. Lothaire giữ Đông Frank, bao gồm hai bờ sông Rhine về phía đông, để lại cho Charles Tây Frank tới các miền tây của Rhineland và Alps. Louis German (mất 876), người con thứ ba từng nổi dậy chống em trai, được phép cai trị miền Bavaria dưới quyền anh cả Lothaire. Tuy nhiên việc phân chia này vẫn chưa làm hài lòng các thành viên hoàng tộc: cháu nội hoàng đế là Pépin II của Aquitaine (con trai của hoàng tử Pépin I của Aquitaine đã chết) nổi loạn đòi làm chủ Aquitaine, trong khi Louis German tìm cách sáp nhập toàn bộ miền Đông Frank. Louis Mộ Đạo mất năm 840 trong lúc đế quốc vẫn trong cảnh rối ren.[102]

Một cuộc nội chiến dài ba năm theo sau hoàng đế băng hà chấm dứt bởi Hiệp ước Verdun (843), một vương quốc được thành lập giữa sông Rhine và sông Rhône dưới quyền cai trị của Lothaire cùng với các lãnh thổ ở Ý; đồng thời đế vị của ông được xác nhận. Louis German kiểm soát Bavaria và miền đất phía đông ở Đức ngày nay. Charles Hói nhận miền phía tây Frank, bao gồm phần lớn nước Pháp hiện nay.[102] Những người cháu và chắt của Charlemagne lại chia cắt vương quốc của họ cho các con cháu, cuối cùng khiến cho sự thống nhất nội bộ một thời hoàn toàn biến mất.[103][chú thích 14] Năm 987 nhà Carolingien bị thay thế ở lãnh thổ phía tây, với sự đăng quang của Hugh Capet (cai trị 987-996) mở đầu vương triều Capetien ở Pháp.[chú thích 15] Dòng dõi này ở miền Đông còn diệt vong sớm hơn, vào năm 911, với cái chết của Louis Thiếu Đế,[106] và việc Konrad I (cai trị 911-918), một người ngoài hoàng tộc, được bầu làm vua.[107]

Sự đổ vỡ của Đế quốc Carolingien song hành với những cuộc xâm lược, di cư và cướp bóc bởi các kẻ thù bên ngoài. Các miền bờ biển Đại Tây Dương và phía bắc bị quấy nhiễu bởi người Viking, những người cũng tấn công quần đảo Anh và định cư ở đó cũng như ở Iceland. Năm 911, thủ lĩnh Viking Rollo (mất khoảng 931) nhận được sự cho phép từ Charles Giản Dị (cai trị 898-922) định cư cộng đồng Viking ở nơi về sau trở thành Normandie.[108][chú thích 16] Miền đông của đế quốc Frank cũ, đặc biệt là ở Đức và Ý, chịu đựng những đợt công kích liên tục của người Magyar cho đến khi đội quân xâm lược thất bại tại trận Lechfeld năm 955.[110] Trong khi đó, sự sụp đổ của triều đại Abbas dẫn tới thế giới Hồi giáo bị phân mảnh thành các tiểu quốc nhỏ hơn, một vài trong số đó bắt đầu bành trướng tới Italia và Sicilia, cũng như vượt Pyréneés vào miền Nam của một số vương quốc Frank.[111]

Các vương quốc mới và Byzantine hồi sinh

Một bảng ngà ở thế kỉ thứ 10 minh họa Chúa đón nhận một nhà thờ từ Otto I

Các nỗ lực của các vị vua ở địa phương nhằm chống lại những kẻ xâm lược dẫn đến sự hình thành những thực thể chính trị mới. Ở nước Anh Anglo-Saxon, Vua Alfred Đại đế (cai trị 871-899) đạt được một thỏa thuận với thủ lĩnh Viking cuối thế kỉ 9, dẫn đến việc những di dân Đan Mạch định cư ở Northumbria, Mercia và, nhiều phần thuộc Đông Anglia.[112] Tới giữa thế kỉ 10, con cháu của Alfred đã hoàn thành chinh phục Northumbria, và khôi phục quyền cai quản của người Anh trên phần lớn đảo Anh.[113]miền bắc Anh, Kenneth MacAlpin (mất khoảng 860) thống nhất người Pict và người Scot, lập nên Vương quốc Alba.[113] Trong khi đó, đầu thế kỉ 10, Nhà Ottonen thiết lập vị trí thống trị ở Đức sau khi lãnh đạo đẩy lùi người Hungary. Những nỗ lực của gia tộc này đạt đến đỉnh cao với sự đăng quang ngôi Hoàng đế Rôma Thần thánh của Otto I năm 962 (cai trị 936-973).[114] Ông tìm kiếm sự công nhận của Đế quốc Byzantine với đế hiệu của mình, bằng cách cho con trai Otto II (cai trị 967-983) kết hôn với Theophanu (mất 991), con gái của hoàng đế Byzantine quá cố Romanos II (cai trị 959-963) năm 972.[115] Đến cuối thế kỉ 10 vương quốc Italia đã rơi vào vùng ảnh hưởng của nhà Ottonen sau một thời gian ổn định;[116] Otto III (cai trị 996-1002) dành phần lớn triều đại của ông cai trị ở vương quốc này[117] Vương quốc Tây Frank bị chia nhỏ hơn nữa, và dù các vị vua vẫn đứng đầu trên danh nghĩa, phần lớn quyền lực chính trị đã rơi vào tay các lãnh chúa địa phương.[118]

Các nỗ lực truyền đạo Ki-tô tới Scandinavia trong thế kỉ 9 và 10 đã giúp tăng cường sự phát triển của các nền quân chủ ở Thụy Điển, Đan MạchNa Uy, thu nhận nhiều quyền lực và lãnh thổ. Một vài vị vua cải sang Ki-tô giáo, nhưng tới năm 1000 không phải tất cả. Người Scandinavi cũng bành trướng và lập thuộc địa khắp châu Âu. Bên cạnh định cư ở Ireland, xứ Anh, và Normandie, các đợt di dân còn diễn ra ở nơi là nước Nga này nay và Iceland. Các thương nhân và cướp biển người Thụy Điển tràn xuống những con sông ở thảo nguyên Nga, thậm chí còn thử tấn công bất thành Constantinople vào những năm 860 và 907.[119] Nước Tây Ban Nha Ki-tô giáo, ban đầu bị đẩy lùi vào một vùng nhỏ phía bắc bán đảo, đã mở rộng chậm chạp về phía nam suốt các thế kỉ 9 và 10, lập nên các vương quốc AsturiasVương quốc León.[120]

Ở Đông Âu, Byzantine hồi phục lại sự thịnh vượng của mình dưới thời các Hoàng đế Basil I (cai trị 867-886), Leo VI (886-912) và Constantinus VII (913-959) thuộc Nhà Macedonian. Thương mại hồi sinh và các vị hoàng đế trông nom việc mở rộng một nền hành chính thống nhất cho các tỉnh. Quân đội được tổ chức lại, cho phép các Hoàng đế John I (cai trị 969-976) và Basil II (cai trị 976-1025) mở rộng cương vực đế chế ở mọi hướng. Triều đình đế quốc ở Constantinople là trung tâm của một sự hồi sinh trong nghiên cứu cổ điển, một thời kì mà giờ đôi khi gọi là "Phục Hưng Macedonia". Các tác giả như John Geometres (sống khoảng thế kỉ 10) sáng tác những khúc ca, bài thơ, và các tác phẩm mới.[121] Các nỗ lực truyền giáo của cả giới tăng lữ Tây và Đông dẫn tới sự cải đạo của người Moravia, người Bulgary, người Bohemia, người Ba Lan, người Hungary, và các cư dân Slav ở Rus Kiev.[122] Bulgaria, thành lập khoảng năm 680, đạt đến đỉnh cao sau đó, vươn từ Budapest tới Hắc Hải và từ sông Dnieper ở Ukraina ngày nay tới Biển Adriatic.[123] Suy yếu dần bởi các cuộc chiến tranh với các thế lực khác, tới năm 1018, những quý tộc người Bulgary cuối cùng đã đầu hàng đế quốc Byzantine.[124]

Nghệ thuật và kiến trúc

Một trang từ cuốn Phúc Âm Kells, một thánh kinh minh họa được chế tác tại quần đảo Anh cuối thế kỉ 8 hoặc đầu thế kỉ 9[125]

Rất ít công trình đồ sộ bằng đá nào được xây dựng trong thời kì giữa các giáo đường kiểu Constantine thế kỉ 4 tới thế kỉ 8, mặc dù ở thế kỉ 6-7 khá nhiều giáo đường cỡ nhỏ xuất hiện. Tới đầu thế kỉ 8, Đế quốc Carolingien hồi sinh dạng kiến trúc nhà thờ lớn.[126] Một đặc điểm của nhà thờ thời kì này là sử dụng cánh ngang,[127] tức những "cánh tay" của một công trình có hình chữ thập vông góc với trục chính hay gian giữa của nó.[128] Các đặc điểm khác của kiến trúc nhà thờ bao gồm tháp trung tâm, và mặt tiền đồ sộ thường nằm ở phía tây của tòa nhà.[129]

Nghệ thuật Carolingien chỉ nhằm phục vụ cho một nhóm nhỏ những nhân vật ở triều đình, các tu viện và giáo đường. Nó bị thống ngự bởi nỗ lực lấy lại chân giá trị và chủ nghĩa cổ điển trong nghệ thuật cung đình Rôma và Byzantine. Trong khi ở quần đảo Anh hình thành nghệ thuật đảo quốc, hay sự kết hợp của truyền thống Celt với nghệ thuật Anglo-Saxon trong trang trí với các hình thức Địa Trung Hải, các tác phẩm chính còn lưu lại ngày nay là các thánh kinh minh họa và các phù điêu chạm ngà (mẫu của những tác phẩm trên kim loại đã bị nung chảy).[130][131] Các vật tạo tác từ kim loại quý là dạng nghệ thuật đỉnh cao của thời đại này, nhưng hầu hết đã thất truyền chỉ trừ một vài cây thập tự như Thánh giá Lothaire, một vài hòm thánh tích, và các vật khai quật được hầm mộ Sutton Hoo (Anglo-Saxon), các kho báu ở Gourdon (Merovingien), Guarrazar (Vigigoth) và Nagyszentmiklós (Byzantine). Trâm cài đầu là một phần quan trọng của trang sức cá nhân giới thượng lưu, một số chiếc tinh xảo còn lưu lại tới nay như Trâm Tara (Ireland).[132] Các sách Phúc Âm được trang trí dầy đặc cũng còn được bảo tồn với số lượng lớn, trong đó có những tác phẩm nổi bật về hàm lượng nghệ thuật như Phúc Âm Kells, Phúc Âm Lindisfarne, và cuốn sách kinh của Charles Hói, Codex Aureus của St. Emmeram nổi tiếng và làm từ vàng và khảm đá quý.[133] Triều đình Charlemagne dường như đã đóng vai trò tiếp nhận điêu khắc tượng hình quy mô lớn vào nghệ thuật Ki-tô giáo,[134] và tới cuối thời kì này các tượng có kích thước giống người thật như Thánh giá Gero trở thành phổ biến trong các nhà thờ lớn.[135]

Thành tựu quân sự

Trong thời mạt kì Đế quốc Rôma, những phát triển chính về quân sự là nỗ lực tạo ra một lực lượng kỵ binh hiệu quả cũng như tiếp tục phát triển hai loại quân có tính đặc chủng cao. Sự thành lập của kỵ binh trang bị nặng cataphract (quân thiết kỵ) là một đặc điểm quan trọng của quân đội La mã thế kỉ 5. Các đội quân man dân có trọng tâm khác nhau trong đội hình-người Anglo-Saxon chủ yếu bao gồm bộ binh trong khi quân Vandal và Visigoth có một tỉ lệ kỵ binh đáng kể.[136] Thời kỳ đầu xâm lược, yên cương còn chưa được biết đến, gây hạn chế cho tính hữu dụng của kỵ binh trong vai trò quân xung kích.[137] Sự thay đổi lớn nhất trong thời kì này là sự tiếp nhận loại cung của người Hung thay cho cung Scythia yếu hơn trước đó.[138] Một sự phát triển khác là việc sử dụng ngày càng nhiều trường kiếm và [139] và sự thay thế dần áo giáp vảy bằng áo giáp lưới và áo giáo tấm.[140]

Tầm quan trọng của bộ binh và khinh kỵ bắt đầu suy giảm vào đầu thời Carolingien, trong khi thiết kị tinh nhuệ trở thành nòng cốt. Việc đánh thuế dân quân lên dân tự do suy giảm trong thời kì này.[141] Mặc dù phần lớn quân đội Carolingien cưỡi ngựa, một tỉ lệ lớn trong đó là bộ binh cưỡi ngựa (chỉ để tăng tính cơ động, còn dàn trận tấn công kiểu bộ binh), thay vì kỵ binh thực sự.[142] Một ngoại lệ là nước Anh Anglo-Saxon nơi quân đội vẫn hợp thành từ các đội quân tuyển mộ ở địa phương, gọi là fyrd (dân quân) do quý tộc địa phương đó chỉ huy.[143] Về mặt kĩ thuật, một trong những thay đổi chính là sự trở lại của nỏ vốn từng xuất hiện và mai một trong thời Rôma.[144] Một thay đổi khác là sự xuất hiện của yên cương cho phép tăng hiệu quả đột kích của kỵ binh. Móng ngựa cũng xuất hiện và tỏ ra hữu ích ngoài cả ý nghĩa quân sự, nó cho phép ngựa có thể sử dụng ở những địa hình nhiều đá.[145]